Cho đến nay chưa có tới nghiên cứu cụ thể về tỉ lệ hiếm muộn sau nao thai, nhưng thực tế có không ít trường hợp dính hiếm muộn sau một lần loại bỏ thai, nhất là các công việc nạo phá thai nhi tiếp diễn ở một vài đơn vị không đảm bảo vô trùng. Thế nên, y học vẫn cho rằng nạo phá thai vẫn có thể dẫn đến hiếm muộn.


Có 3 lý do chính gây từ bỏ thai là: một vài cặp vợ ông xã chưa muốn có con, không có điều kiện sinh con và nuôi con; những cặp vợ chồng đã có 1 hoặc 2 con rồi, nhiễm phải vỡ kế hoạch; đáng chú ý hơn cả là một vài cô gái chưa ông xã , mang thai ngoài ý muốn .

Thủ thuật hủy thai giữ lại rất nhiều hệ lụy , gây hậu quả xấu. Tỉ lệ trung bình của tai biến và biến chứng của nạo phá thai nhi khoảng 2-10% .

Một số phương thức phá thai và hệ lụy

1. Nội khoa (dùng thuốc):

- Sử dụng thuoc pha thai với tuổi thai từ 5 đến 7 tuần

- Di chứng: Thất bại của thuốc phá thai, Sảy thai không hoàn toàn, có thể dẫn đến băng huyết và nhiễm trùng...

2. Nong nạo thai

- Áp dụng với tuổi thai 8-16 tuần

- Chuyên gia chuyên khoa nong rộng cổ dạ con rồi đưa vào trong tử cung một dụng cụ giống như cái thìa để lấy ra phôi thai cùng rau thai.

* Di chứng sớm:

- Choáng do đau: phản ứng đau có thể gây ra ngưng tim đột ngột và gây tử vong.

- Nứt tử cung : Từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, đều cần dùng dụng cụ sử dụng kim loại đưa vào đưa ra (nong rộng cổ dạ con , que kim chủng để dò chiều hướng khoang tử cung và đo độ dài khoang tử cung ; sử dụng ống hút bằng kim kiểu để hút bào thai và đế cuống rốn, thìa nạo sử dụng kim loại để nạo sạch khoang tử cung ) không tránh nguy cơ khỏi hướng thực hiện xước tử cung , thậm chí tạo thành lỗ rách ở tử cung . nhiều khi qua lỗ thủng ở dạ con , vài dụng cụ có khả năng dẫn đến thương tổn sang cả vài bộ phận ở ổ bụng (ruột) . Một vài sẹo nứt do nạo được trị bệnh bảo tồn có thể là nguyên nhân dẫn đến vỡ dạ con khi chuyển dạ về sau

- Chảy máu: Khi tổ chức cuống rốn nằm ở vách dạ con dính ống hút hút ra khỏi vách dạ con , sẽ để lại trên bề mặt khá nhiều mạch máu bị vỡ ra. Thao tác không mau chóng sẽ ảnh hưởng tới sự co bóp của tử cung , tiến hành cho vài mạch máu không liền lại, mất đi rất nhiều máu. Máu có thể chảy đưa ra ngoài hoặc ứ lại trong buồng dạ con , cũng có thể theo lỗ rách dạ con chảy vào ổ bụng gây ra nhiễm trùng , shock chảy máu

- Nhiễm trùng: do viêm bộ phận sinh dục như viêm cô bé , viêm cổ dạ con chưa được chữa khỏi hoặc phẫu thuật và dụng cụ kém chất lượng vô trùng. nghiêm trọng hơn nếu ký sinh trùng tấn công vào máu có thể gây nhiễm khuẩn máu thực hiện người nạo, phá thai sau 2-3 ngày sẽ sốt dữ dội, khó thở, mê sảng… Nếu không nên xử lý đúng lúc có thể gây ra tử vong.

- Sót rau gây ra chảy máu (băng huyết) và nhiễm khuẩn .

- Tử vong là tình trạng cao nhất của nạo phá thai nhi , thường do: Choáng do đau, choáng do chảy máu , do nhiễm khuẩn : viêm màng bụng, nhiễm khuẩn huyết, uốn ván (thường do phá giấu giếm) , tác dụng phụ của thuốc giảm đau, gây mê, gây tê, tắc mạch, nhiễm khuẩn và băng huyết không khống chế được. Tử vong do đẩy thai ra khỏi tử cung hợp pháp chiếm 0,0006% tất cả vài trường hợp loại bỏ thai (khoảng 1 ca tử vong trên 160.000 ca hủy thai ) .

- Tai biến dẫn đến tê - dẫn đến mê: Trong gây mê có tai biến khoảng 1/2.000 và tử vong là 1/8.000. nguyên nhân tử vong có khả năng do không tôn trọng các chống chỉ định của gây ra mê dẫn đến một phản xạ ngưng tim hoặc một shock dị ứng

* Di chứng về lâu về dài :

- Sau khi loại bỏ thai , ngoài một vài đau đớn về thể xác thì họ còn chịu thêm nỗi đau tinh thần, bởi không người cha người mẹ nào muốn bỏ đi giọt máu của mình. Họ bị lương tâm cắn dứt, dư luận lên án. . . tạo nên nỗi ám ảnh tội lỗi không nguôi đối so với đứa con vô tội. rất nhiều người sau thời kỳ loại bỏ thai đã khóc lóc, mất đi ăn mất ngủ, gặp ác mộng, hay thẫn thờ, giật mình. . . trong một thời gian dài.

- Dính dạ con: xảy đến do phẫu thuật thô bạo, nạo vét sâu, hoặc tiến hành đi làm lại khá nhiều lần dẫn đến tổn thương sẹo dính. Dính tử cung cản trở tinh trùng tới gặp trứng và hướng tiến hành tổ của bào thai

- Rối loạn kinh nguyệt: Nếu tổn thương không khá nhiều , chỉ có một bộ phận nào đó ở khoang tử cung dính mắc, thường chỉ làm giảm lượng kinh nguyệt hoặc gây ra chảy máu không theo một quy tắc nào. Nếu thương tổn nguy hiểm, mặt dính ở khoang dạ con rộng, sẽ dẫn đến bế kinh về lâu về dài . Nếu cổ dạ con nhiễm phải mắc phải , máu hành kinh không ra ngoài được mà chảy ngược vào bụng sẽ gây ra biểu hiện kinh nguyet bat thuong có tính chất chu kỳ.

- Dính tắc vòi trứng: cản trở tinh trùng gặp trứng hoặc trứng đã thụ tinh không về dạ con tiến hành tổ được (thai ngoài tử cung ) thường do tiễu phẫu dẫn đến nhiễm trùng . Rất nhiều tình huống có dính tắc vòi trứng mà không cắt vòi trứng, khi cấy phôi vào, phôi không thể sinh sôi bởi dịch và mủ trong đó quá độc

- Sẩy thai hoặc đẻ non: Khi phá thai , miệng cổ dạ con bị dụng cụ nới rộng tiến hành thủng , thì sau đó, hễ có bầu là sau 12 tuần sẽ kết thúc bằng sẩy thai do cơ vòng cổ dạ con bị thương tổn không đủ sức nâng đỡ thai nhi. trường hợp này còn được gọi là hở eo cổ tử cung